43. Kinh doanh chênh lệch lãi suất (Carry Trade) là gì?

Kinh doanh chênh lệch lãi suất là một chiến lược đầu tư trên Thị trường Ngoại hối nhằm kiếm lời nhờ sự biến động tỷ giá và sự chênh lệch lãi suất tái cấp vốn giữa các đồng tiền trong một cặp tiền tệ xác định. Khi thực hiện chiến lược này, nhà kinh doanh sẽ mua đồng tiền có lãi suất cao hơn bằng đồng tiền có lãi suất thấp hơn.
Sau đây là một ví dụ về cặp NZD/JPY (đô-la New Zealand và đồng Yên Nhật). Các bước thực hiện như sau:

Nhà đầu tư vay 1,000,000 Yên với lãi suất tái cấp vốn 0.5%
Đồng Yên được đổi lấy đồng đô-la New Zealand
Nhà đầu tư mua trái phiếu phát hành bằng đồng đô-la New Zealand với lợi tức 8%
Nhà đầu tư thu được lợi nhuận 7.5% (8% - 0.5% = 7.5%).

Tất nhiên, tỷ giá NZD/JPY có biến động theo thời gian. Ví dụ, trong suốt năm 2007, một nhà kinh doanh có thể kiếm lời 20% từ biến động tỷ giá, cộng thêm 7.5% từ việc kinh doanh chênh lệch lãi suất.
Tỷ giá NZD/JPY (từ năm 2000 đến 2007)
 cauhoi43
Như các bạn thấy từ bảng trên, tháng Tám năm 2007 đánh dấu sự tuột dốc đáng kể của tỷ giá NZD/JPY. Hiện tượng này là bất bình thường bởi nó bị tác động bởi cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ. Vậy thì thời kỳ khủng hoảng liệu có gây bất lợi cho việc kinh doanh chênh lệch lãi suất hay không? Câu trả lời thường là có, vì khi đó lãi suất tái cấp vốn sẽ cùng sụt giảm ở rất nhiều quốc gia và việc kinh doanh dựa vào chênh lệch lãi suất sẽ khó kiếm lời. Nhưng tỷ giá hối đoái thì không bao giờ ngừng biến động và và vẫn có rất nhiều cơ hội kiếm lời.
Chiến lược kinh doanh như được nói đến ở trên được các quỹ đầu tư lớn và các nhà đầu tư dài hạn (từ vài tháng đến vài năm) áp dụng.

12 nguyên lý của lý thuyết Dow.

 1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa). Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán. 

2. Ba xu thế của thị trường Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với qui mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi các bởi sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch - gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bản thân nó (gọi chung các biến động này là các biến động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow. 

 3. Xu thế cấp 1 Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá - thị trường lúc này là thị trường con bò tót - Bull Market (để đảm bảo tính chính xác, trong phần còn lại của của đề án sẽ dự nguyên thuật ngữ tiếng Anh : Bull Market). Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu-Bear Market. Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng mới có duy nhất mình anh ta bắt đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự kết thúc và bắt đầu Bear Market. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của thị trường. 

4. Xu thế cấp 2 Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoản 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián đoạn rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu của nó. Dù sao cũng cần lưu ý là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một luật lệ không thể phá vỡ mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tác động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm kết thúc biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế. 

 5.Xu thế nhỏ (Minor) Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian.Thông thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể. Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với biến động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau: Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về biển. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó. Mặt biển cũng luôn luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn - những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những dao động hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn xem xét đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng. 

 6. Bull Market (thị trường con bò tót - thị trường tăng giá) Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì. Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu tư của họ đang giảm giá trị nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ. Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái Phân tích kỹ thuật. Cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Đến thời điểm sau khoảng hai năm tính từ lúc thị trường bắt đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực sự thì sau hai năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket-stock” xuất hiện ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi. Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách bất thường - có thể là do nhà đầu tư bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý do dùng khái niệm này là vì nó được so sánh với việc máy bay đột ngột mất độ cao, ngoài khả năng kiểm soát khi gặp air-poket là những dòng khí hướng xuống, tác động làm mất chiều cao máy bay.

 7. Bear Market (Thị trường con gấu - thị trường giảm giá) Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ. Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân phối” (thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận. Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ "hỗn loạn". Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba. Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến.

 8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường. Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân). • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường. Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng chung của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp dụng nguyên lý về sự xác nhận. Không cần thiết cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự thể hiện ra bản chất xu hướng của nó.

 9. Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường. Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi. Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn lẻ. Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ.

 10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2. Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng. Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều thể hiện một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có biến động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Do vậy một mức giá dao động vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của dao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ dao động càng nhỏ thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn. Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với những người phân tích thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” - giai đoạn ban đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một Bull Market. Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn cuối cùng trong quá trình hình thành hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

 11. Chỉ sủ dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu. Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày. Xem xét một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không. Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt dao động giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất cứ một dao động nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0. 01 và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

 12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định. Nguyên lý này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng bởi bản chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa mới được hình thành thì cho dù có những dao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành. Nguyên lý thứ mười hai của Dow nói rằng “Making your position pending contrary orders”. Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Điều gì làm cho giao dịch thành công?

Có rất nhiều điều làm cho nhiệm vụ kinh doanh thêm khó khăn hay để "kinh doanh thành công", bởi vì bất cứ ai cũng có thể giao dịch, không cần thiết phải có kinh nghiệm, đơn giản bạn chỉ cần biết một cú nhấp chuột để mua hoặc một cú nhấp chuột để bán.Để khác với họ tôi  nêu tên vài điều sao:
Bạn cần có một chiến lược đúng đắn. Bạn cần phải tìm và thiết lập một số quy tắc nhằm xác định các cơ hội giao dịch có nguy cơ thấp nhất, có thể sử dụng các chỉ số kỹ thuật, Fibonacci, sóng Elliot, hành động giá, hoặc bất cứ điều gì phù hợp với bạn và làm cho bạn cảm thấy thoải mái.
Kỷ luật. Để giao dịch được liên tục, không tìm kiếm lợi nhuận bất ngờ hoặc ngẫu nhiên (hay còn gọi là outguessing), cách duy nhất để đạt được là làm theo 100% hệ thống của bạn.
Rủi ro và các kỹ thuật quản lý tiền. Bạn cần phải có khả năng kiểm soát rủi ro trên mỗi giao dịch và quan trọng hơn vốn của bạn! bạn chấp nhận bao nhiêu nguy cơ trên mỗi giao dịch cụ thể: số lượng pip (quản lý rủi ro) và khối lượng giao dịch (quản lý tiền bạc).
Kiên nhẫn. Bạn cần phải chờ đợi thời điểm thích hợp để tham gia thị trường. Khi nào là thời điểm thích hợp? Khi hệ thống báo hiệu nó. Đôi khi chúng ta thấy thị trường di chuyển, và bạn muốn được giao dịch, đó là khi tỷ lệ cược thực sự thuận lợi cho bạn.
Bạn cần phải thực tế. Một số traders nghĩ rằng có thể có 100% lợi nhuận mỗi tháng, là có thể? Vâng, làm được, nhưng không có cơ sở phù hợp. Để có được lợi nhuận như vậy, bạn cần phải chấp nhận trủi ro tương tự, và chuyện gì sẽ xảy ra khi thị trường không mỉm cười với bạn? Tài khoản của bạn biến mất. Và danh sách traders muốn làm điều này ngày càng nhiều và rất nhiều. Nhưng ... trong quan điểm của tôi một nhiệm vụ khó khăn nhất là những gì bạn nên làm, là nókhông có gì khác ...
Hãy xem kịch bản này:
Bạn được yêu cầu trả lời một trong những câu hỏi khó khăn nhất: 2 + 2 =?
Kịch bản A. 2 + 2 = 4, trả lời đúng ... bạn sẽ có được kẹo. 
Kịch bản B. 2 + 2 = 4, trả lời sai ... bạn bị đòn.

Hầu hết trong cuộc sống chúng ta điều chọn  như kịch bản A. Bạn làm tất cả mọi thứ, và bạn sẽ có được kết quả tốt. Bạn làm theo quy tắc của bạn, bạn làm những gì bạn có nghĩa vụ phải làm. Bạn sẽ có được kết quả mong đợi.
Nhưng khi giao dịch ngoại hối có một chút khác nhau. Trong thực tế nó rất giống như kịch bản B. Ngay cả khi bạn làm theo tất cả các quy tắc của bạn, ngay cả khi bạn làm chính xác những gì bạn có nghĩa vụ phải làm, bạn vẫn có thể bị sai.
Quá lạ, nó trở nên kỳ dị, nghe này ... bạn cũng có thể làm tất cả mọi thứ sai, bạn có thể làm ngược lại những gì bạn có nghĩa vụ phải làm và bạn có thể đúng!
Kỳ lạ quá phải không?  hi!hi!!!
Nhưng đó là đúng, ngay cả khi thực hiện theo hệ thống của bạn, khi bạn bán lúc 13:30, thị trường có thể stoploss  lúc 13:31 ... Nhưng bạn vẫn đang thực hiện đúng (nếu bạn theo hệ thống).
Vì vậy, chúng ta cần phải thích ứng, hầu hết chúng ta nghĩ rằng có một mối liên hệ tích cực làm những điều đúng và kết quả tốt (nhiều $$$). Nhưng trong giao dịch nó không giống như vậy, mối quan hệ đó là thực sự quan trọng về "làm những việc đúng" là: dù có hay không bạn luôn theo hệ thống chiến lược của bạn:
Các mối quan hệ của chiến lược:
Cho đến nay chúng tôi đang nói chuyện về việc làm theo hệ thống của bạn, nhưng có một kết quả tiêu cực. Niếu ở phía bên kia không tuân theo hệ thống bạn sẽ bị tàn phá nhiều hơn, nhưng thị trường đi về hướng có lợi cho bạn.
Khi điều này xảy ra, bạn sẽ bắt đầu nghĩ là bạn làm còn tốt hơn so với hệ thống của bạn, một cách vô thức, bạn sẽ không tin tưởng vào hệ thống và cố gắng outguess nó và bạn biết những gì xảy ra tiếp theo ...
Hãy nhớ rằng, chúng ta làm những điều đúng khi chúng ta tuân theo quy tắc, bất kể kết quả cuối cùng của các giao dịch của bạn.
Và lần sau khi bạn outguess hệ thống của bạn, Thị trường sẽ biến động chống lại bạn ... tin tôi, Nó sẽ làm tốt hơn cho bạn!

Bạn nghĩ điều gì làm cho giao dịch ngoại hối khó khăn nhất? Hãy bình luận cùng chúng tôi (những người bạn yêu thích giao dịch ngoại hối)

3 NGUYÊN TẮC CHÍNH CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT

Giao dịch sử dụng phân tích kỹ thuật, bạn phải hiểu 3 nguyên tắc cơ bản.
Charles H. Dow - Những 3 nguyên tắc cơ bản của phân tích kỹ thuật đều dựa trên 6 nguyên lý của Lý thuyết Dow

1. TẤT CẢ MỌI THỨ trên thị trường là GIÁ VÀ KHỐI LƯỢNG.

Tất cả mọi thứ bao gồm tin tức, sự kiện, dữ liệu, cảm xúc, và mong đợi. Tất cả mọi người (bao gồm cả phân tích cơ bản) cân nhắc hơn mỗi phần thông tin để đưa ra một quyết định: để mua hoặc để bán.Quyết định này ảnh hưởng đến đơn giá và khối lượng.
Và giá cả thực sự là những gì tất cả mọi người là quan tâm Giá cho chúng ta nếu chúng ta trong màu xanh  hoặc màu đỏ. Khi giá thị trường biến động, giá trị tài sản ròng của bạn dao động. Đây là tầm quan trọng của thị trường. Do đó, giá và khối lượng là tất cả chúng ta cần . Đơn giản đây là những gì tôi thích về phân tích kỹ thuật.

2. THỊ TRƯỜNG CÓ QUÁN TÍNH.

Nếu thị trường đang tăng lên, nó sẽ có khả năng tiếp tục tăng. Nếu thị trường đang giảm, nó sẽ có khả năng tiếp tục giảm. Nếu thị trường không phải là đi bất cứ nơi nào, nó sẽ có khả năng tiếp tục ở lại trong một phạm vi. Điều này là rất quan trọng đối với traders, như bên cạnh của chúng tôi luôn là quán tính.
Do đó, trong phân tích kỹ thuật, chúng tôi đã nói điều này: "xu hướng là bạn của bạn". Bây giờ, nhắm mắt lại và chọn một điểm ngẫu nhiên trên một biểu đồ. Lặp lại 100 lần. Đã bao nhiêu lần bạn đã chọn bước ngoặt chính xác của một xu hướng? Bất kỳ câu trả lời rất ấn tượng. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ở lại với xu hướng này .

3. THỊ TRƯỜNG DAO ĐỘNG TRONG SÓNG.

Thị trường không có một mức giá mục tiêu chưa biết xác định bởi nguyên tắc cơ bản (hay đúng hơn là những gì chúng tôi mong đợi của nó). Như thay đổi thông tin liên tục, thị trường có một mục tiêu di chuyển. Tuy nhiên, nó không di chuyển theo đường thẳng trực tiếp đến mục tiêu giá.
Điều này là do traders hoạt động trong các khung thời gian khác nhau có những nhu cầu khác nhau. Kết quả là, nhu cầu có thể vượt cung trong thời điểm này, và cung có thể vượt qua nhu cầu trong kế tiếp. Điều này làm cho giá để di chuyển trong lên khi xuống.Trong việc sử dụng phân tích kỹ thuật, đây là một nguyên tắc quan trọng khi chúng ta sử dụng xu hướng lên hay xuống trong thời gian thực vào và thoát của chúng tôi phù hợp với quán tính.

Triết Lý Đầu Tư 72 phép thần thông


“Phép 72″ hay thường gọi là “Rule of 72″ là một phương thức tính, để biết về sự huyền dịệu của phép “lũy tiến” (the Magic of Compounding). Tương tự như trong chuyện xưa của Việt Nam, có một ông Vua muốn thưởng cho một vị tướng có công, đã hỏi vị tướng muốn điều gì thì Vua sẽ đáp ứng cho. Vị tướng tài trong lúc phân vân, chưa biết chọn lựa như thế nào, thì chỉ vào bàn cờ gồm 64 ô, và nói: “Thần chỉ muốn có được những hạt gạo trên bàn cờ, một hạt ở ô thứ nhất, gấp đôi thành hai hạt ở ô thứ hai, gấp đôi thành 4 hạt ở ô thứ ba, … và cứ tiếp tục gấp đôi như vậy cho đến ô thứ 64.”
Vị Vua cười lớn vẻ như chế ngạo: “tưởng gì chứ chỉ có thế thì quá dễ!”. Ông sai binh lính mang một bao gạo nhỏ ra đếm và bỏ vào bàn cờ. Thế nhưng chỉ trong chốc lát, hết bao này đến bao khác vẫn không đủ, cứ thế cho đến năm ngày sau, tất cả các kho gạo đều hết sạch mà vẫn chưa đủ gạo cho bàn cờ 64 ô…
Bạn cứ tính thử xem: 1 thành 2, 2 thành 4, 4 thành 8, 8 thành 16, 16 thành 32, 32 thành
64, 64 thành 128, rồi 256, 512, 1024, 2048, 4096, 8192, 16384, 32768, 65536, 131072,
262144, 524288, 1048576, 2097152, 4194304, 8388608, 16777216, 33554432, 67108864,
13421772, … và đây chỉ mới đầy ô thứ 27. Có thể nói nếu đem hết các kho gạo của cả
nước lúc đó cũng không đầy nỗi đến ô thứ 64.

Bạn ngạc nhiên ư? đây chính là sức mạnh của sự “lũy tiến” mà ít khi chúng ta để ý đến.
“Phép 72″ là một cách tính đơn giản hơn, để tính với lãi suất (Interest Rate). Bạn lấy 72 chia cho lãi suất, thì số thành sẽ là số năm (year) mà tiền của bạn sẽ thành gấp đôi, cả vốn lẫn lời.
Lấy thí dụ bạn có $10 ngàn đô, nếu bạn cho vay hay đầu tư ở đâu đó với phân lời là 4%, thì với 72 chia cho 4, bạn được 18. Có nghĩa là 18 năm sau, bạn có được $20 ngàn; rồi 18 năm nữa (vị chi là 36 năm tổng cộng) bạn có được $40 ngàn. Nếu bạn bắt đầu đầu tư vào lúc 29 tuổi, thì 36 năm sau, lúc ở tuổi về hưu 65, bạn có được $40 ngàn đô. Bạn dùng “Phép 72″ mà không phải cần đến máy tính.
Lại thử tiếp cũng với $10 ngàn đô ở tuổi 29, nhưng thay vì 4% thì bạn có cách đầu tư nào đó với lãi suất 18%, để xem thử bạn sẽ có được bao nhiêu khi bạn 65 tuổi? Bạn đoán thử xem? 4% và 18%, có thể gấp 5 lần? thay vì $40 ngàn thì bạn sẽ có $200 ngàn?
72 chia cho 18 thành 4. Có nghĩa là cứ 4 năm tiền bạn sẽ gấp đôi:
- 29 tuổi: đầu tư $10,000 với lãi suất 18%. Số tiền này sẽ gấp đôi mỗi 4 năm:
- 33 tuổi: $20,000
- 37 tuổi: $40,000
- 41 tuổi: $80,000
- 45 tuổi: $160,000
- 49 tuổi: $320,000
- 53 tuổi: $640,000
- 57 tuổi: $1,280,000
- 61 tuổi: $2,560,000
- 65 tuổi: $5,120,000

Bạn có thấy sự khác biệt khủng khiếp giữa 4% và 18% chưa? Một bên là $40 ngàn, một bên là hơn $5 triệu, cũng với ngần ấy thời gian.
Đó là lý do tại sao bạn gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng, họ chỉ trả có 3, 4 phần trăm – rồi họ lại cấp cho bạn Credit Cards, “xạc” 18% không thương tiếc. Và ngân hàng nào cũng giàu có, sống lâu sống khoẻ, sống hùng sống mạnh.
Đó là cách các ngân hàng làm ra tiền, họ “mượn đầu heo nấu cháo” một cách triệt để.
Điều đáng buồn là phần lớn người Mỹ có tiền dành dụm, bỏ vào qũy tiết kiệm ở ngân hàng, chấp nhận một lãi suất quá thấp (đó là chưa kể phải trả thuế trên số tiền lời mỗi năm) – rồi lại rất hãnh diện khi được ngân hàng chấp thuận cấp cho vài cái thẻ Credit với lãi suất 18 – 21%, và họ “cà” rất thoải mái.
Điều còn đáng buồn hơn, là một số lớn những người mua nhà, cố gắng dành dụm trả thêm tiền nhà mỗi tháng, trả càng nhanh càng tốt vì không muốn mang nợ, mà họ không để ý rằng số tiền Equity mà họ đang cố gầy dựng, chẳng khác nào tiền bỏ ngân hàng với lãi suất 0%. Và tệ hại hơn nữa là họ không thể nào lấy ra khi cần, nhất là sau khi bị mất việc hoặc không có thu nhập. Và hầu như người nào cũng có nợ xe, nợ Credit Cards với lãi suất cao ngất ngưởng, nhưng lại không muốn trả dứt.
Bạn phải tinh thông “Phép 72″, tránh kế “Mượn đầu heo nấu cháo” của ngân hàng bằng đối kế “Mượn cháo nấu đầu heo”. Bạn phải biết cách mượn tiền ngân hàng, trả 5 -7% để rồi đầu tư sinh lợi đến 12 – 18%.
Ngày xưa Tề Thiên Đại Thánh dùng 72 phép thần thông, bức lông phun thành nhiều Tề Thiên Đại Thánh – thì ngày nay người Việt ở xứ Mỹ sẽ dùng “Phép 72″, dùng tiền Equity và mượn tiền ngân hàng để đầu tư vào địa ốc, mua nhà khắp nơi: mỗi người năm bảy căn, mỗi gia đình vài chục căn; thì cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng sẽ mua đứt khoảng vài chục triệu căn nhà. Đến lúc đó mình sẽ cho người Mỹ thuê lại. Biết đâu con cháu vài thế hệ sau nắm nhà, nắm đất, nắm quyền, cũng dám dựng cờ tuyên bố dành độc lập, biến nước Mỹ thành nước Việt Nam cũng có…
Biết đâu được!
Dean Nguyen

5 sai lầm phổ biến về tài chính của đàn ông


Các nhà tâm lí học cho rằng đàn ông thường tự kiêu hơn phụ nữ và không muốn nhận được bất cứ sự hướng dẫn nào.

>> Những lò đào tạo tỷ phú lừng danh nhất thế giới


Các chuyên gia tâm lí cũng cho rằng tính cách này phát sinh từ thời xa xưa khi chúng ta còn sống theo bầy đàn, săn bắn hái lượm. Trong thời kì đó thì cá tính quá tự tin, kiêu ngạo sẽ làm tăng cơ hội sống sót khi đối mặt với thú dữ. Tuy nhiên hôm nay chúng ta phải đối mặt với thị trường chứ không phải với thú dữ. Không giống như săn bắn, khi nói đến đầu tư tâm lí quá tự tin của đàn ông dễ dẫn đến sai lầm tài chính. Dưới đây là năm sai lầm phổ biến nhất của đàn ông trong lĩnh vực đầu tư.


Tích cực giao dịch cổ phiếu mà không cần tham khảo ý kiến
Bạn đang tìm kiếm các trang web để cập nhật thông tin, xếp hạng mới nhất của hàng hóa hay cổ phiếu. Dù bạn nghiên cứu các thông tin về cổ phiếu trên mạng kĩ đến đâu cũng không bằng kinh nghiệm của những người đã từng bỏ thời gian, công sức đầu tư vào cổ phiếu. Bạn tin rằng chỉ cần tự mày mò tìm kiếm và với khả năng của bản thân bạn có thể hiểu rõ về thị trường và biết mình nên làm gì, vì thế bạn tham gia giao dịch thường xuyên. Làm như vậy bạn phải chịu tất cả các khoản thuế lien quan đến kinh doanh như là hoa hồng, thuế... nhưng lại không chọn được cổ phiếu tốt hơn những người đã có kinh nghiệm
Tập trung vào các quỹ “nóng”
Phụ nữ có tiềm năng trong việc chọn quỹ hơn bởi vì họ tập trung vào lợi nhuận mà quỹ mang lại hơn là quỹ đó có “hot” tại thời điểm đó hay không. Không giống như đọc sách báo tài chính, rà soát các khoản phí phải trả cho các sản phẩm tài chính bạn có và các loại thuế phát sinh là một ý tưởng thông minh. Các quỹ tương hỗ là loại quỹ rất quan trọng vì các quỹ có vẻ giống nhau nhưng thuế lại khác nhau. Ngay cả như lớp học về các loại quỹ, cổ phiếu, thuế cũng rất đa dạng.
Nắm giữ một cổ phiếu quá lâu
Trong giao dịch cổ phiếu giao thì khi bạn nắm giữ một cổ phiếu quá lâu sẽ thể hiện sự quá tự tin vào phán đoán của bản thân. Bạn nắm giữu cổ phiếu quá lâu vì tin rằng nó sẽ tăng giá nhưng thực tế đã chứng minh là bạn sai. Và khi phải bán đi những cổ phiếu bị thua lỗ cảm giác thật chua xóa nhưng biết đâu nhờ thế bạn lại rút ra bài học cho bản thân và sửa đổi được tính tự kiêu.
Kiểm tra giá trị tài sản thường xuyên
Đối với nam giới thì việc tổn thất tiền bạc có ảnh hưởng nhiều hơn là kiếm được tiền. Và cổ phiếu thì thường tăng giảm thất thường kéo theo tâm lí lo lắng cũng thất thường theo. Trong kinh doanh thì sự lo lắng thái quá thường dẫn đến những kết quả không mong muốn. Đừng quá chăm chăm vào màn hình máy tính sẽ giúp bạn an tâm hơn và nhờ đó biết đâu việc đầu tư kinh doanh của bạn cũng khá hơn.
Không nghe lời khuyên từ các chuyên gia tài chính
Đàn ông thường bảo thủ, họ ít khi nghe theo lời khuyên hay góp ý từ người khác. Họ biết mình phải làm gì và không chịu nổi nếu ai đó nói rằng con đường họ đang đi là sai lầm. Cùng phải đối mặt với việc làm thế nào để thiết lập một tài khoản cho lúc nghỉ hưu. Phụ nữ có xu hướng lắng nghe lời khuyên, tham gia các cuộc hội thảo về tài chính hơn nam giới. Và trong các buổi hội họp về làm thế nào để có một khoản tiết kiệm khi nghỉ hưu thì phụ nữ thường tham gia nhiều hơn và biết áp dụng các thông tin cũng như lời khuyên từ cuộc hội thảo để có những quyết định tài chính thông minh.
Sơ suất của nam giới
Đàn ông thường tự tin rằng họ biết mình nên làm gì nhưng trên thực tế thì họ chả biết gì cả còn phụ nữ lại cho rằng mình kém hiểu biết về tài chính nhưng thường có những quyết định tài chính đúng đắn. Đấy là bởi vì đàn ông quá tự tin, bảo thủ, không chịu nghe lời góp ý còn phụ nữ biết tham khảo ý kiến, biết chọn lọc thông tin, họ làm việc bằng cả lí trí và con tim, biết thay đổi quyết định khi cần thiết. Chính sự ngạo mạn của nam giới đã dẫn đến biết bao sai lầm.
DƯƠNG