Những
yếu tố ảnh hưởng đến việc Cung và Cầu của một loại tiền tệ?
Hai yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái là
: Dòng vốn (The capital flows) và Dòng
chảy thương mại (The trade flows)
Hai thành phần này tạo thành những Cán cân thanh toán (Balance of Payments). Mục đích chính
của cán cân thanh toán là để định lượng các nhu cầu và cung cấp cho một loại
tiền của một quốc gia, trên một khoảng thời gian.
Cán cân
thanh toán = Dòng vốn + Dòng chảy thương mại
Về lý thuyết, cán cân thanh toán = 0, có nghĩa là
đồng tiền đó thể hiện đúng giá trị. Nếu cán cân thanh toán là số âm(-),
thì điều đó chỉ ra rằng lượng tiền chảy ra khỏi quốc gia đó lớn hơn dòng vốn
vào. Có nghĩa đồng tiền đó lượng cầu nhỏ hơn cung. Ngược lại, Nếu cán cân thanh
toán là số dương(+), thì điều đó chỉ ra rằng lượng tiền chảy vào quốc gia đó
lớn hơn dòng vốn ra. Có nghĩa đồng tiền quốc gia đó có lượng cầu lớn hơn cung.
Dòng vốn.
Dòng vốn đầu tư là khối lượng tịnh của tiền tệ
được giao dịch (mua hoặc bán) thông qua việc đầu tư vốn .
Dòng vốn có thể được chia thành: dòng vốn lưu
động (physical flows) và danh mục đầu tư (portfolio
investments).
Dòng vốn lưu động - Chúng xảy ra khi các nước bán
nội tệ và mua ngoại tệ để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (đối với liên doanh, nhập
khẩu…) Khi khối lượng của dòng vốn này tăng nó phản ánh tình trạng sức khỏe của
nền kinh tế nơi mà nó được đầu tư.
Danh mục đầu tư - Đây là những đầu tư được thực
hiện trên thị trường toàn cầu, đầu tư trên thị trường hay thay đổi và cố định
(Forex, cổ phiếu, T-hóa đơn …) Một ví dụ các khoản danh mục đầu tư là khi một
quỹ đầu tư tại Nhật Bản đầu tư vào các thị trường chứng khoán Mỹ.
Dòng chảy thương mại
Các luồng thương mại đo xuất khẩu ròng và nhập
khẩu của một quốc gia . Hai thành phần này (xuất khẩu và nhập khẩu) tạo thành
tài khoản vãng lai.
Nước có một tài khoản vãng lai tích cực (xuất
khẩu lớn hơn nhập khẩu) có nhiều khả năng giảm giá đồng tiền của họ, theo cách
này người tiêu dùng ở nước ngoài sẽ cảm nhận được đồng tiền nước này rẻ hơn (có
thể mua hàng hoá và dịch vụ). Một ví dụ điển hình là Nhật Bản.
Mặt khác, các quốc gia có một tài khoản vãng lai
tiêu cực (nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu) có nhiều khả năng để đánh giá cao đồng
tiền của họ kể từ khi họ cần phải bán đồng nội tệ và mua ngoại tệ để mua hàng
hoá, dịch vụ. Hoa Kỳ là một ví dụ của một quốc gia nhập khẩu ròng.
Trung bình
Giá (PPP) (Purchasing Power Parity)
Là tỷ giá hối đoái được xác định bằng giá cả
tương đối của một rổ hàng hóa ở các nước khác nhau . Nói cách khác, tỷ lệ giá
của một rổ hàng hoá tương tự của hai quốc gia nên được tương tự như tỷ giá hối
đoái .
Nếu một máy tính cá nhân tại Úc chi phí 1.500$ AU,
và các máy tính trong Việt Nam
chi phí 1.200$ US. Theo PPP, tỷ giá hối đoái AUD / USD là 1,2500 (1,500 /
1,200).
Nếu tỷ giá là 1,3000 (hoặc cao hơn 1,2500) nói
rằng trong thời gian dài, nó sẽ làm giảm giá trị của nó cho đến khi đạt 1,250.
Mặt khác, nếu tỷ giá hối đoái tại 1,0500 (hoặc thấp hơn 1,2500) tỷ giá hối đoái
trong thời gian dài sẽ làm tăng giá trị của nó cho đến khi đạt 1,2500.
Ví dụ này chỉ là minh họa, trong thế giới thực nó
không phải chỉ là một mà là một rổ hàng hóa.
Điểm yếu lớn của lý thuyết này là nó giả định
rằng không có chi phí liên quan đến thương mại hàng hoá (thuế quan, thuế, vv ).
Điểm yếu khác nữa là nó không xem xét các yếu tố khác mà có thể ảnh hưởng đến
tỷ giá hối đoái (tức là tỷ lệ lãi suất ...)
Lý thuyết tiền tệ hiện đại bao gồm các thị trường
vốn lý thuyết PPP cho rằng thị trường vốn có chi phí kinh doanh.
Lý thuyết về lãi suất.
Là lãi suất chênh lệch trung hòa sự tăng hoặc
giảm bất kỳ loại tiền tệ so với đồng tiền khác. Do đó không có cơ hội chênh
lệch.
Ví dụ nếu lãi suất của Úc là 6,25% và lãi suất
của Hoa Kỳ là 3,5%, sau đó AUD giảm giá so với đồng USD, do đó không có cơ hội
chênh lệch.
Ngoài ra còn có giả thuyết khác cố gắng giải
thích giá trị của một cặp tiền tệ . Tuy nhiên, như với tất cả các lý thuyết,
chúng được dựa trên giả định có thể có hoặc không có mặt trong thế giới thực.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Mời bạn cùng thảo luận.